đọc lịch sử việt nam

ĐỌC TRUYỆN LỊCH SỬ VIỆT NAM. Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân Khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng mang lại nền độc lập của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán. Việt Nam sử lược là cuốn sách lịch sử Việt Nam tâm huyết của nhà sử học Trần Trọng Kim. Cuốn sách là một gợi dẫn sơ khai cho những ai đang muốn tìm hiểu dòng chảy lịch sử nước nhà. Cùng điểm qua đôi chút về tác giả, tác phẩm cụ thể sau đây. 1. TVN. Đến ngày 17.10, theo Hankookilbo, sau khi tập cuối của Little Women được phát sóng tại Hàn Quốc, biên kịch Jung Seo Kyung đã có cuộc phỏng vấn chia sẻ về bộ phim. Đề cập đến những ồn ào xoay quanh bộ phim tại Việt Nam, biên kịch này trả lời: "Tôi nghĩ đến chiến Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Với hơn năm lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm khác nhau. Nếu bạn muốn tìm hiểu về lịch sử nước nhà, hãy xem ngay những cuốn sách lịch sử Việt Nam hay nhất, đáng đọc nhất dưới đây được Sách Xưa tổng hợp. Bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức tuyệt vời về lịch sử huy hoàng của đất nước ta. Top Sách Lịch Sử Việt Nam Hay Nhất 1. Đại việt sử ký toàn thư Nhắc đến sách sử, Đại Việt sử ký toàn thư chính là cái tên đầu tiên cần được nói đến. Đây là bộ quốc sử nổi danh viết bằng Hán văn của nước ta. Nó được viết theo thể biên niên. Sách ghi chép lại lịch sử Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2879 TCN cho tới những năm 1675 SCN thuộc đời vua Lê Gia Tông của nhà Hậu Lê. Đại việt sử ký toàn thư Bộ toàn thư này được khắc in toàn bộ. Nó được phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sử, thuộc triều vua Lê Hy Tông. Tức là năm 1697. Theo các nhà sử học, đây là bộ chính sử Việt Nam cổ xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay. Nó chính là tác phẩm không thể thiếu đối với những người yêu, đam mê tìm hiểu về lịch sử. 2. Việt Nam Sử Lược Sử là sách. Nó không đơn thuần là để ghi lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà thôi. Nhưng sử cần được viết khi đã suy xét kỹ càng gốc ngọn, tìm tòi được cái căn nguyên những công việc người ta đã làm. Chỉ khi đó mới có thể hiểu rõ những vận hội trị loạn của một đất nước, những trình độ tiến hoàn của một dân tộc. Việt Nam Sử Lược Đây là cuốn sách sử đầu tiên của Việt Nam được viết lại bằng chữ quốc ngữ. Nó hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho tới thời kỳ đại Pháp thuộc. Được biên soạn năm 1919, đến năm 2020 cuốn sách này đã được xuất bản. Trong thời Pháp thuộc, nó còn được sử dụng làm sách giáo khoa dùng trong giảng dạy. Ở thời điểm ra mắt, Việt Nam sử lược gây thích thú bởi nó là cuốn sách sử đầu tiên không viết theo lối cương mục, biên niên. Nhờ đó, nó thoát khỏi lối viết cương mục với những ngôn từ khó hiểu. Từ đó, dễ dàng được độc giả đón nhận hơn. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn sử học đánh giá cuốn sách này có khá nhiều sai sót. Đó là yếu tố tất yếu khi nó được biên soạn trong một thời gian quá ngắn. Những yếu tố này có thể gây hiểu lầm nếu người đọc không tinh ý, không có hiểu biết nhiều về lịch sử Việt Nam. 3. Xứ Đàng trong – Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18 Cuốn sách này là công trình nghiên cứu nổi tiếng của Li Tana về lịch sử hình thành, phát triển và con đường gần như chạm đến diệt vong của xứ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn. Cuốn sách nêu lên một cái nhìn bao quát, đầy đủ. Qua cuốn sách sử này, bạn có thể có được cái nhìn rõ nset. Từ kinh tế, chính trị, xã hội và quân sự của vùng đất đàng trong. Đồng thời, theo dõi nó hình thành, phát triển và trở thành một trung tâm giao thương lớn nhờ chính sách ngoại thương dưới thời chúa Nguyễn. Xứ Đàng trong – Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18 Li Tana là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng trên thế giới. Cuốn sách “Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18’ là luận án tiến sĩ của Li Tana nộp tại Đại học Quốc gia Australia. Nó được đánh giá là một đề tài khó khi nhắc tới một thời kỳ phức tạp trong lịch sử Việt. Nếu bạn đang muốn tìm một cuốn sách sử hấp dẫn, đây là cái tên không thể bỏ qua. Bạn nên đọc để cảm nhận về một thời kỳ lịch sử của nước Việt theo cách rõ nét nhất. Đặc biệt, cuốn sách sẽ giúp bạn hiểu hơn về sự hình thành, phát triển và lụi tàn của xứ Đàng Trong lừng lẫy trong lịch sử nước nhà. 4. Sử Việt – 12 khúc tráng ca Trong thời gian qua, cuốn sách sử này được rất nhiều tín đồ yêu sách ưa thích. Nó kể lại 12 câu chuyện dựng nước, giữ nước nổi tiếng nhất thời phong kiến. Tất cả đều được lựa chọn theo tính chất quan trọng, hùng tráng nhất trong suốt dòng chảy của lịch sử nước nhà. Cuốn sách này lưu giữ những tư liệu quý báu đã được các nhà sử học kiểm chứng. Xen kẽ với đó là những nhận định, đánh giá cá nhân của người thực hiện biên soạn. Tác phẩm này sẽ giúp bạn có thể đọc, ngẫm nghĩ những câu chuyện lịch sử hấp dẫn theo cách hoàn toàn mới. Đây không phải một cuốn tiểu thuyết dã sử. Tuy nhiên, nó cũng hấp dẫn chứ không hề khô khan như những tài liệu chuyên khảo thông thường. Bạn sẽ tìm được những thông tin vô cùng hấp dẫn trong cuốn sách nổi tiếng này. Từ đó, hiểu hơn về những khúc ca bi tráng trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc. 5. Biên bản chiến tranh của Trần Mai Hạnh Trần Mai Hạnh từng có một thời gian dài làm phóng viên chiến trường. Ông làm việc dưới trướng của Thông tấn xã Việt Nam tại chiến trường miền Nam. Vào những ngày đầu tiên của năm 1975, ông được cử đi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Nhiệm vụ của ông là làm phóng viên đặc biệt và ghi nhận tình hình chiến dịch. Biên bản chiến tranh của Trần Mai Hạnh Cũng chính trong giai đoạn này, ông thu được rất nhiều tài liệu quý. Trần Mai Hạnh cũng nỗ lực ghi nhận lại tình hình thực tế, ký sự tại chỗ. Những tài liệu đó cùng với quá trình nghiên cứu sau này đã giúp ông viết Biên bản chiến tranh Cuốn sách là cái nhìn rõ nét của người trong cuộc về một giai đoạn lịch sử. Nó là tác phẩm đáng đọc, mang đến cho bạn nhiều cái nhìn thú vị đấy. 6. Bão táp Triều Trần – Hoàng Quốc Hải Triều đại nhà Trần có vai trò rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Năm 2003, cuốn sách Bão táp triều Trần’ ra đời đã được rất nhiều người đón nhận. Tính đến hôm nay, nó đã được tái bản nhiều lần. Từ đó, đáp ứng mong mỏi cũng như nhu cầu tìm hiểu của những người yêu lịch sử. Bão táp Triều Trần – Hoàng Quốc Hải Bộ sách này bao gồm 6 tập nhỏ. Mỗi tập nói về một vấn đề nóng bỏng của triều Trần Bão táp cung đình;Đuổi quân Mông Thái;Thăng Long nổi chiến Bạch Trân công chúa;Vương triều sụp đổ; Nó sẽ khắc họa lại thật rõ nét sự ra đời, phát triển cho tới lúc diệt vong của nhà Trần. Trong 175 năm tồn tại của triều đại, bạn có thể nhận thấy những thịnh suy, thay đổi của nhà Trần. Năm 2008, cuốn sách của Hoàng Quốc Hải vinh dự nhận giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội. Nó chính là gợi ý tuyệt vời cho những bạn yêu lịch sử. Hãy tìm đọc ngay tác phẩm này để suy ngẫm kỹ hơn về một triều đại nổi danh của nước ta nhé! 7. Vua Gia Long và người Pháp Cuốn sách này là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Thụy Khuê. Thụy Khuê đã nhận thấy rất nhiều khác biệt giữa ghi chép sử của vua quan nhà Nguyễn so với các sử gia phương Tây cùng thời. Từ đó, ông không ngại bỏ công mày mò, tìm kiếm những tài liệu lịch sử lưu trữ qua tàng công thư, tư, tôn giáo. Từ đó, làm rõ những gì người Pháp nói về một thời kỳ quan trọng trong lịch sử của nước ta. Vua Gia Long và người Pháp Tác phẩm của Thụy Khuê đã rất khéo léo dựng lại bức tranh khách quan nhất về Nguyễn Ánh – Gia Long cùng những người Pháp bên cạnh ông. Với tác phẩm này, bạn có thể nhìn nhận rõ nét hơn. Từ đó, đánh giá về một giai đoạn lịch sử phức tạp bậc nhất của nước ta. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về những cuốn sách lịch sử Việt Nam nổi bật nhất. Hiện tại, chúng đều có mặt tại Sách Xưa với những phiên bản nổi bật nhất. Nếu bạn đang tìm kiếm những tác phẩm chất lượng, hãy liên hệ ngay với Sách Xưa. Chúng tôi sẽ giúp bạn có được những lựa chọn hoàn hảo đấy. Thông tin liên hệ Nhà sách Xưa và Nay Địa chỉ 0019 Bạch Mã, Cư xá Bắc Hải, Phường 15, Quận 10, Hồ Chí MinhĐiện thoại 0903-663-733Email nhasach0019 cửa Thứ 2 đến Chủ NhậtThời gian 8h30 đến 19h00 Thời kỳ độc lậpKể từ khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, đã mở ra một thời kỳ mới là thời kỳ Việt Nam độc lập. Sau đây là một số nét chính về lịch sử Việt Nam trong thời kỳ này đã được VnDoc tóm lược, xin chia sẻ đến các Việt Nam tuyên bố độc lậpTuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7 không nói rõ phần lãnh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói là phe Đồng minh bao gồm cả Việt Minh sẽ tham gia giải giới. Tuy nhiên, Thủ tướng Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố bác bỏ Tuyên bố Potsdam cũng như Tuyên bố Cairo trước đó. Tới 10/8/1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam và đầu hàng quân Đồng đó, lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã liên tục chống phát xít Nhật và thực dân Pháp từ thập niên 1930. Đặc biệt, trong năm 1945, Việt Minh đã nhiều lần tổ chức cho quần chúng nhân dân cướp các kho gạo của Nhật để cứu đói. Tới tháng 8/1945, lực lượng Việt Minh lãnh đạo đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở hầu khắp các tỉnh tại Việt Nam trừ một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc. Chính quyền phát xít Nhật khi đó đã đầu hàng Đồng Minh, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trở thành cố vấn tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập và thống nhất từ miền Bắc tới miền Nam. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử toàn quốc đã được tổ chức. Các đại biểu Việt Minh chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kỳ được chọn là cờ nền đỏ, sao vàng năm cánh, hiến pháp được thông qua. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Chiến tranh chống Pháp 1946–1954Sư đoàn 308 tiến vào tiếp quản thủ đô Hà Nội năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên nhiên, nền độc lập của Việt Nam bị đe dọa chỉ sau 2 tuần. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia Trung Hoa giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy trì ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao cho Pháp trong sự chịu đựng của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam, quân Nhật được giải giới bởi quân Anh–Ấn. Sau đó, quân Anh–Ấn đã chuyển giao miền Nam cho Pháp khi Pháp trở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1945. Trong suốt năm 1946, chính quyền Hồ Chí Minh đàm phán hòa bình với Pháp, mặc dù vậy hai bên cũng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Lúc này Pháp chỉ công nhận quyền tự trị trong Liên hiệp Pháp của Việt Nam chứ không đống ý cho Việt Nam độc lập. Chiến tranh giữa Việt Minh và thực dân Pháp bùng nổ tháng 12 năm đầu năm 1947, Pháp có vẻ thắng thế và nắm được toàn bộ các đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Minh kiên trì với chiến lược "chiến tranh nhân dân" và chiến thuật du kích, tổ chức và đào tạo dân chúng cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài. Tới năm 1949, để giảm bớt gánh nặng, Pháp đàm phán với các chính trị gia người Việt chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo. Pháp viện trợ để thành lập một nhà nước mới là Quốc gia Việt Nam. Người đứng đầu nhà nước này là Quốc trưởng Bảo Đại, với cờ Quẻ Ly là quốc kỳ. Chính quyền này có sự tham gia của các quan lại cũ thân Pháp. Được Pháp hỗ trợ tài chính và vũ khí cũng như nắm quyền chỉ đạo, Quân đội Quốc gia Việt Nam góp quân tham gia cùng Pháp hòng dập tắt phong trào kháng chiến của Việt 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô bắt đầu trợ giúp Việt Minh vũ khí. Bên kia, Pháp được Mỹ hậu thuẫn, hỗ trợ phần lớn chiến phí, nhưng đầu thập niên 1950, thế trận của Pháp bắt đầu yếu đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn toàn nỗ lực của Pháp và Mỹ nhằm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954, để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là đình chiến và tạm thời phân chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tạm thời có ranh giới tại vĩ tuyến 17, ranh giới này không được coi là biên giới chính trị hay biên giới quốc gia. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp bao gồm Quốc gia Việt Nam. Tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả hai miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền Nam. Khoảng 1 triệu người, gồm phần lớn là người theo Công giáo ở miền Bắc đã di cư vào Nam, trong khi người gồm phần lớn là bộ đội chống Pháp người miền Nam tập kết ra miền quyền Hồ Chí Minh xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng vì Hiệp định này quy định một cuộc tổng tuyển cử để thành lập một quốc gia thống nhất. Họ tin rằng mình sẽ thắng cử vì uy tín rộng khắp của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên, cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Pháp rút quân, Tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng 80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử và hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập chính thể riêng biệt ở phía Nam vĩ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đây là hành động phá hoại Hiệp định miền Bắc, chính quyền Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp - công nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh. Cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đã giải quyết được vấn đề công bằng ruộng đất cho nông dân nghèo, tuy nhiên một số sai lầm gây ra sự xáo trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu. Mặt khác, một số nhà văn, nhà báo của Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm phải đi học tập cải tạo, kiểm điểm hoặc cho thôi việc vì viết bài chống đối đường lối chính trị và công cuộc thống nhất đất nước. Về mặt công nghiệp, các nhà máy mới bắt đầu được xây dựng với sự hỗ trợ về vốn, công nghệ của các nước thuộc khối Xã hội chủ thời gian này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị Quốc gia Việt Nam thi hành tuyển cử thống nhất đất nước, nhưng bị từ chối. Năm 1955, với sự trợ giúp của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã gian lận để chiến thắng trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, cho phép ông lên làm Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam và sau này trở thành Tổng thống của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Bảo Đại phải lưu vong sang Pháp. Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng cải cách điền địa, cũng như củng cố quân đội để giữ vững chính phủ thân Mỹ. Tuy nhiên, chính phủ Ngô Đình Diệm đã tổ chức đàn áp chính trị và tôn giáo khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng. Vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài nghìn người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền Quảng Trị, ở nhà tù Phú Lợi tàn sát hàng nghìn tù nhân tình nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn, nước uống. Các cuộc biểu tình của Phật giáo vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây ra mâu thuẫn tôn giáo sâu Chiến tranh chống Mỹ 1955–1975Từ năm 1959, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn nhằm kêu gọi chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận này là Quân Giải phóng miền Nam được thành lập và tổ chức bảo vệ các cơ sở chính trị cũ của Việt Minh cũng như bảo vệ người dân trước sự đàn áp của chính quyền Diệm. Mặt trận đã kiểm soát một khu vực rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều vụ tấn công vào các căn cứ đối phương. Trước đó, Hoa Kỳ đã hỗ trợ tài chính, vũ khí và cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm từ năm 1954 để ngăn chặn sự lớn mạnh của Việt Minh tại miền Nam do tập kết chính trị được phép tiến hành tại chỗ nên các cơ sở chính trị của Việt Nam không phải ra Bắc cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam.Người Mỹ biểu tình phản đối cuộc chiến của chính phủ Mỹ tại Việt Nam với sự châm biếm "Đế quốc Mỹ và Con rối Sài Gòn"Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa và gửi nhân viên quân sự đến Việt Nam dưới danh nghĩa "cố vấn". Tuy nhiên, những mâu thuẫn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm với phật giáo Việt Nam, việc chống quân Giải phóng miền Nam không đạt mục tiêu và thái độ không phục tùng của Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ chính phủ Ngô Đình Diệm bằng cách ủng hộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến hành đảo chính. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đảo chính và ám sát Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng hòa và thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa. Sau sự kiện này Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, tình hình chính trường miền Nam sau đảo chính hết sức hỗn loạn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bên bờ vực sụp chiến trường, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tiếp gặp thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Để cứu vãn tình thế, sau khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964, Tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1965 lần lượt các đoàn quân được chuyển tới chiến trường Việt Nam cùng với khoảng "cố vấn" đã có từ trước, số lượng quân đội Mỹ lên tới khoảng người vào thời điểm năm 1968. Chiến tranh bùng nổ ác liệt năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ đánh vào miền Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ gồm Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, còn Liên Xô và Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và huấn giai đoạn đảo chính liên tiếp, năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm năm 1968, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân địa phương mở cuộc tổng tấn công Chiến dịch Tết Mậu Thân vào hầu hết các thành phố chính ở miền Nam Việt Nam, tuy thất bại về mặt chiến thuật nhưng đã đạt được mục đích đề ra khiến cho Chính phủ và dân chúng Mỹ mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam cũng như buộc Chính phủ Mỹ phải ngồi đàm phán với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tới tháng 11 năm 1968, Johnson tuyên bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam" và đồng ý ngồi vào đàm phán. Tuy nhiên, 1 năm sau, Tổng thống kế nhiệm Richard Nixon thông báo Mỹ quay trở lại, Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vào tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cùng với chiến sự ở chiến trường, cả hai bên đều tìm kiếm giải pháp chấm dứt chiến tranh thông qua các cuộc hội đàm ở Paris. Nội dung đàm phán được thực hiện qua các phiên họp kín giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vốn là 2 bên thực sự điều khiển cuộc chiến 2 đoàn còn lại là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam chỉ tham gia cho có đủ danh nghĩa. Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris mới được ký giữa 4 bên, sau thất bại nặng nề của Mỹ trong các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa Kỳ tiến hành cuối năm Hiệp định Paris 1973, quân viễn chinh Mỹ rút khỏi Việt Nam – điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày. Mặc dù đã có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn do Quân lực Việt Nam Cộng hòa vi phạm hiệp định. Tiêu biểu, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, QLVNCH đã tấn công cảng Cửa Việt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với những điểm yếu nội tại của mình, Quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể duy trì được lâu. Đến giữa tháng 3 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên, khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Quân Việt Nam Cộng hòa liên tục để mất Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng sau chưa đầy 1 30 tháng 4 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành được quyền kiểm soát Sài Gòn, chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Thời kỳ đầu sau thống nhất 1976–1986Ngày 25 tháng 4 năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất về mặt nhà nước thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế – xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Những khủng hoảng này đã gây sức ép đổi mới cả về chính trị và quản lý kinh Thời kỳ đổi mới 1986–nayNăm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi Mới", đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, để hợp lý hóa cơ cấu hành chính, cải cách cơ cấu Đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường với định hướng Xã hội chủ cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất khẩu. Trước 1989, Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu 1–1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm 4,5 triệu tấn năm 2004, 4,9 triệu tấn năm 2005, đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần đến năm 1990 còn 67,4% và năm 2005 lạm phát chỉ còn 8,5%.Trong thời gian 1991–1995, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước GDP đạt 8,2%. Đến tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1% 1991 xuống còn 12,7% 1995 và 4,7% 1996.Năm 2004, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng thứ 2 trong khu vực, sau Singapore. Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD, khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg-Vorpommern của Đức. Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu tăng 30% cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng 10,2%. Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam là 8,5%.Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt 1995, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và tiếp đó gia nhập ASEAN, APEC, thành viên diễn đàn ASEM. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, đã trở thành thành viên thứ 150 của khi gia nhập WTO đến nayNgày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO sau 11 năm đàm phán. Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008–2009. Ngay sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cho Đảng Cộng sản Việt Nam phải ngăn chặn, khắc phục triệt để một bộ phận cán bộ, Đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, song song với việc đề cao cảnh giác các thế lực thù địch. Đến năm 2015, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu hồi phục mạnh gia Cộng đồng Kinh tế ASEANNgày 31 tháng 12 năm 2015, Việt Nam chính thức tham gia thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ASEAN Economic Community, viết tắt AEC, gồm 10 quốc gia thành viên. AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế các bạn tham khảo thêmLịch sử Việt Nam thời Pháp đô hộLịch sử Việt Nam thời nhà Nguyễn độc lậpLịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Bản tóm lược các mốc sự kiện chính của lịch sử Việt Nam, giúp bạn đọc có được cái nhìn nhanh và bao quát về những chặng đường mà đất nước đã trải qua. • Trước năm 218 TCN, Việt Nam chưa có chính sử, lúc này truyền thuyết và lịch sử còn hòa quyện vào nhau. Người ta thường hay nhắc tới các truyền thuyết về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh – Thủy Tinh nhằm giải thích nguồn gốc và sự đấu tranh để tồn tại của dân tộc. • Từ năm 257 – 208 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh người Âu Việt hợp nhất với nước Văn Lang của Lạc Việt, đặt quốc hiệu nước là Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương. Thời kỳ này lịch sử được tái hiện thông qua lăng kính truyền thuyết với việc An Dương xây thành Cổ Loa. • Từ năm 217 – 111 TCN, Triệu Đà, gốc người Hán, thôn tính Âu Lạc. Sự kiện này cũng được thể hiện qua truyền thuyết về mối tình Trọng Thủy, Mỵ Châu. Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà lập nước Nam Việt. Nhà Triệu kéo dài 97 năm với năm đời vua Triệu Đà, Triệu Hồ, Triệu An Tề, Triệu Hưng, Triệu Kiến Đức.• Năm 113, nội tình nhà Triệu rối ren, nhà Hán thừa cơ đưa quân sang đánh Nam Việt rồi đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ.• Từ năm 207 TCN – 39 SCN, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của nhà Hán.• Từ 40 – 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Sau thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh.• Năm 41, Mã Viện mang 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Năm 43, Hai Bà Trưng thất bại, phải nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.• Từ năm 43 – 543, Việt Nam sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Thời gian này có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống quân Đông Ngô. Bà Triệu tự xưng là Đại Hải Bà Vương, đánh nhau với tướng Đông Ngô là Lục Dân nhưng thất bại.• Từ năm 544 – 548, khởi nghĩa của Lý Bí 544, Lý Nam Đế xưng vương, đặt tên nước là Vạn Xuân.• Từ năm 548 – 571, Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến chống quân Lương và lên ngôi vua là Triệu Việt Vương.• Từ 571 – 602, Lý Phật Tử, họ hàng với Lý Nam Đế tiêu diệt Triệu Việt vương và lên ngôi. Thời kỳ này phong kiến phương Bắc là nhà Tùy sang xâm lược. Lý Phật Tử đầu hàng, Việt Nam bị nhà Tùy đô hộ.• Năm 722, khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Sau này, cuộc khởi nghĩa thất bại, nước ta chịu sự đô hộ của nhà Đường.• Từ 791 – 802. Khởi nghĩa Phùng Hưng thắng lợi. Năm 802, nhà Đường tấn công, Việt Nam lại chịu sự đô hộ của nhà Đường.• Từ 905 – 938, thời kỳ xây nền tự chủ bắt đầu với chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ. Sau đó tiếp nối là Khúc Thừa Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ.• Từ 939 – 944, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lên ngôi vua và đóng đô ở Cổ Loa.• Từ 944 – 950, Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng vương.• Từ 950 – 965, thời kỳ Hậu Ngô vương. Con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi vua cho nhà Ngô.• Từ 966 – 968, loạn 12 sứ quân.• Từ 968 – 980, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi, hiệu Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết, con là Đinh Toàn mới sáu tuổi được triều thần đưa lên ngôi.• Từ 980 – 1005. Nhà Tống xâm lược Việt Nam, thái hậu Dương Vân Nga, mẹ của Đinh Toàn mời Lê Hoàn lên ngôi để chỉ huy nhân dân chống Tống. Lê Đại Hành lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư năm 1005, Lê Đại Hành mất.• Từ 1005 – 1009, thời đại của Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều.• Từ 1010 – 1028. Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi hoàng đế sau khi Lê Ngọa Triều mất. Năm 1010, Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn cho dời đô về Thăng Long Hà Nội ngày nay, mở đầu cho thời kỳ phát triển văn hóa Thăng Long.• Từ 1028 – 1054, triều đại của Lý Thái Tông.• Từ 1054 – 1072, triều đại của Lý Thánh Tông.• Từ 1072 – 1128, triều đại của Lý Nhân Tông. Thời kỳ này gắn với các chiến công của Lý Thường Kiệt đánh quân Tống và các thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của Thái sư Lê Văn Thịnh.• Từ 1128 – 1138, triều đại của Lý Thần Tông.• Từ 1138 – 1175, triều đại của Lý Anh Tông. Thời kỳ này, triều chính rối loạn nhưng nhờ có các trung thần nên cơ đồ nhá Lý vẫn được giữ vững.• Từ 1176 – 1210, triều đại của Lý Cao Tông. Thời kỳ này chính sự đổ nát, giặc giã, đói kém liên miên. Nhà Lý bắt đầu suy thoái.• Từ 1211 – 1225, triều đại của Lý Huệ Tông và Chiêu Hoàng. Thời kỳ này triều chính rối ren, lòng người ly tán, nhà Lý không còn đảm đương được vai trò lịch sử nữa. Trần Thủ Độ cùng những người thân tín trong họ nhà Trần làm một cuộc đảo chính cung đình hợp pháp, thông qua các cuộc hôn nhân giữa công chúa Chiêu Thánh và Trần Cảnh, bắt ép công chúa nhường ngôi cho chồng.• Từ 1225 bắt đầu triều đại nhà Trần.• Từ 1225 – 1258, triều đại của Trần Thái Tông. Năm 1258, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Dân ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, sau đó tổ chức phản công ở Đông Bộ Đầu. Quân Nguyên thua, phải rút chạy về nước.• Từ 1258 – 1278, triều đại của Trần Thánh Tông. Thời kỳ này triều Trần khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang các điền trang thái ấp, mở các khoa thi để lựa chọn nhân tài, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo với triều đình phong kiến phương Bắc.• Từ 1279 – 1293, triều đại của Trần Nhân Tông. Năm 1285, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Các vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở Bình Than, tập trận ở Đông Bộ Đầu đồng thời tổ chức hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến các bô lão xem nên "hòa" hay nên "đánh". Sau các chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp, tháng 6-1285, giải phóng kinh đô Thăng Long. Năm 1288, kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba. Sau trận chiến trên sông Bạch Đằng, đất nước được giải phóng. Chiến thắng lịch sử gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.• Từ 1293 – 1314, triều đại của Trần Anh Tông. Đây là một thời kỳ thái bình thịnh trị của vương triều Trần.• Từ 1314 – 1329, triều đại của Trần Minh Tông.• Từ 1329 – 1341, triều đại của Trần Hiến Tông.• Từ 1341 – 1369, triều đại của Trần Dụ Tông. Chính sự bắt đầu đổ nát, gian thần rất nhiều.• Từ 1370 – 1372, triều đại của Trần Nghệ Tông. Quân Chiêm Thành đánh vào kinh đô, nhà vua phải lánh nạn. Sau đó nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông.• Từ 1372 – 1377, triều đại của Trần Duệ Tông. Vua đem quân đi đánh Chiêm Thành và chết trong chiến trận.• Từ 1377 – 1388, triều đại của Trần Phế Đế. Hồ Quý Ly bắt đầu thao túng triều đình.• Từ 1388 – 1398, triều đại của Trần Thuận Tông. Thời kỳ này quyền hành thực chất nằm trong tay Hồ Quý Ly.• Từ 1398 – 1400, triều đại của Trần Thiếu Đế. Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Thiếu Đế nhường ngôi. Triều đại nhà Trần chấm dứt.• Từ 1400 – 1401, triều đại Hồ Quý Ly. Nhiều cải cách táo bạo được thực thi như mở mang thi cử, phát hành tiền giấy tăng cường quân đội thường trực, định ra hình luật. Tuy nhiên các cải cách này không được sự ủng hộ của toàn dân.• Từ 1401 – 1407, triều đại Hồ Hán Thương nhưng thực chất Hồ Quý Ly vẫn cầm quyền. Quân Minh sang xâm lược.• Từ 1407 – 1414, thời kỳ hậu Trần gồm các triều đại của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế chống quân Minh nhưng không thành công.• Từ 1428 – 1433, thời kỳ mở đầu triều đại Lê Sơ bắt đầu từ triều đại của Lê Thái Tổ Lê Lợi. Năm 1418, Lê Lợi khởi binh. 1427 quân Minh thua phải rút quân. 1428 Nguyễn Trãi thay mặt vua viết "Bình Ngô đại cáo", một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, khẳng định chủ quyền, cương vực, đánh dấu một sự phát triển mới trong lịch sử dựng và giữ nước.• Từ 1433 – 1442, triều đại của Lê Thái Tông. Thời kỳ này có một vụ án lịch sử lớn "Tru di Tam tộc" Nguyễn Trãi.• Từ 1442 – 1459, triều đại của Lê Nhân Tông. Thời kỳ có loạn Lê Nghi Dân, nhà vua bị giết năm 19 tuổi.• Từ 1460 – 1497, triều đại của Lê Thánh Tông. Đây là thời kỳ thịnh trị của triều Lê với sự ra đời của bộ luật Hồng Đức – một bộ luật hoàn chỉnh, có nhiều điểm tiến bộ.• Từ 1498 – 1504, triều đại của Lê Hiến Tông.• Từ 1504 – 1509, triều đại của Lê Túc Tông, sau đó là Lê Uy Mục.• Từ 1509 – 1516, triều đại của Lê Tương Dực. Nhà Lê suy thoái.• Từ 1516 – 1522, triều đại của Lê Chiêu Tông. Đại thần Mạc Đăng Dung phế Lê Chiêu Tông, dựng Lê Cung Hoàng lên ngôi.• Từ 1522 – 1527, triều đại Lê Cung Hoàng nhưng quyền hành thực chất nằm trong tay họ Mạc.• Từ 1527 – 1529, Mạc Đăng Dung lập nên triều Mạc.• Từ 1530 – 1592, các triều đại Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp.• Từ 1533 – 1578, thời kỳ nhà Lê Trung Hưng bắt đầu từ Lê Trung Tông, Lê Anh Tông, Lê Kính Tông, Lê Thần Tông, Lê Chân Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông, Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Du Phường, Lê Thuần Tông, Lê Yý Tông, Lê Hiển Tông, Lê Chiêu Thống. Sau 50 nội chiến Lê – Mạc, nhờ Trịnh Tùng Mạc Mậu Hợp bị bắt. Nhà Mạc chấm dứt. Vai trò của nhà Trịnh nổi lên và bắt đầu thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh. Thời kỳ cuối cùng của nhà Lê Trung Hưng, triều chính nát bét. Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp Trịnh, đưa Lê Duy Cận lên làm giám quốc. Lê Chiêu Thống vì quyền lợi cá nhân sang cầu viện nhà Mãn Thanh. Quân Thanh kéo quân vào xâm lược Việt Nam.• Năm 1789, trận Đống Đa. Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã chiến thắng quân Thanh, giành độc lập cho Tổ quốc.• Từ 1545 – 1788, triều đại của nhà Trịnh nắm thực quyền bên cạnh sự tồn tại của vua Lê và Chúa Nguyễn Đàng trong bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng – 1558.• Năm 1548 Trịnh Kiểm bắt đầu nắm quyền binh. Triều đại của Trịnh Kiểm bắt đầu từ 1545 – 1570. Tiếp đó là các chúa Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Can, Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh Khải và Trịnh Bồng.• Từ 1672 có sự phân chia Đàng trong chúa Nguyễn và Đàng ngoài chúa Trịnh + Vua Lê lấy sông Gianh làm giới tuyến.• 1782 loạn kiêu binh. Sự kiện này được miêu tả rất rõ trong tiểu thuyết lịch sử – "Hoàng Lê nhất thống chí".• 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, Quảng Nam. Bắt đầu từ đây, nhà Nguyễn khởi nghiệp với 9 đời chúa là Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Thụ, Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần. Tới năm 1174, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân đặt quan cai trị Thuận Hóa. Nguyễn Phúc Thuần chết, kết thúc giai đoạn lịch sử 9 chúa Nguyễn Đàng trong.• Từ 1778 – 1802, triều đại Tây Sơn.• Năm 1771, anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Nhà Tây Sơn hòa hoãn với chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.• 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lập nên triều đại Tây Sơn.• 1784 Nguyễn Ánh sang cầu viện Xiêm. Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm ở trận Rạch Giầm – Xoài Mút.• 1786, Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt Trịnh phù Lê.• 1788, Lê Chiêu Thống dẫn đường quân Thanh vào xâm lược nước ta.• 1789, Nguyễn Huệ chỉ huy quân đại quân đánh tan quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa.• 1792 vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần. Từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy thoái.• Từ 1793 – 1802, triều đại của Cảnh Thịnh con vua Quang Trung. Chính sự rối loạn do nhà vua tin lời gian thần.• 1800 Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn.• 1801 Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân.• 1802 Nguyễn Ánh đánh kinh thành Thăng Long. Triều Tây Sơn chấm dứt.• Từ 1802 – 1945, triều đại của nhà Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Ánh Gia Long. Nếu tính cả các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng 1558 nhà Nguyễn tồn tại ở miền Nam 367 năm.• 1802, sau khi diệt xong nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân Huế.• 1815 bộ "Quốc triều hình luật" được ban hành.• Từ 1820 – 1840, triều đại của Minh Mạng.• Năm 1821, dựng lại Quốc Tử Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu kỹ thuật đóng tàu của châu Âu. Về ngoại giao thần phục nhà Thanh, nhưng nghi kỵ Pháp nên có hàng loạt chính sách cấm đạo.• Từ 1841 – 1847, triều đại của Thiệu Trị.• Từ 1847 – 1883, triều đại của Tự Đức.• 1858 Pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ.• 1883 hòa ước Quý Mùi.• 1885 hòa ước Patơnốt, Việt Nam bị chia làm ba miền Bắc, Trung, Nam, chịu sự bảo hộ của Pháp.• 1883, triều Dục Đức, chỉ tồn tại trong ba ngày.• 1883 tháng 6 – tháng 11 triều đại Hiệp Hòa, tồn tại trong sáu tháng.• 1883 – 1884, Triều Kiến Phúc, tồn tại trong tám tháng.• 1884 – 1885, triều đại của Hàm Nghi nhà vua ra chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân chống Pháp.• 1885 – 1888 triều đại Đồng Khánh.• 1889 – 1907 triều đại của Thành Thái. Nhà vua có ý thức tự cường nên không được thực dân Pháp chấp nhận.• 1907, nhà vua bị ép phải thoái vị.• 1907 – 1916, triều Duy Tân, nhà vua chống Pháp quyết liệt, định tổ chức khởi nghĩa thì bị lộ. Nhà vua bị Pháp đầy sang đảo Rênyông.• 1916 – 1925, triều Khải Định, một triều vua bù nhìn mạt hạng nhất.• 1926 – 1945 triều Bảo Đại. Năm 1945, Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam.• 1859 – 1864, khởi nghĩa Trương Định.• 1861 – 1868 khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực.• 1886 – 1887, khởi nghĩa Ba Đình.• 1885 – 1887, khởi nghĩa Bãi Sậy.• 1886 – 1892, khởi nghĩa Hùng Lĩnh.• 1885 – 1896, khởi nghĩa Hương Khê.• 1887 – 1913, khởi nghĩa Yên Thế.• 1917 – 1918, khởi nghĩa Thái Nguyên.• 1921, bạo động ở Lạng Sơn.• 1930, bạo động ở Yên Bái.• Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời.• 1931, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.• 1936 – 1939, phong trào đấu tranh đòi dân chủ công khai.• Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.• 1946 toàn quốc kháng chiến.• 1954 chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp phải ký hiệp nghị Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương.• 1960 Đồng Khởi. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời.• 1968, tổng tiến công tết Mậu Thân. Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc.• 1972 chiến thắng B52, Mỹ phải họp hội nghị ở Paris.• Ngày 27-1-1973, ký hiệp định Hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Mỹ rút quân.• chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng.• Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất quyết định đổi tên nước ta thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.• 1986 đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường lối đổi mới.

đọc lịch sử việt nam